Báo cáo đặc biệt về tác động của sự nóng lên 1,5°C trên toàn cầu so với thời kỳ tiền công nghiệp và các lộ trình phát thải khí nhà kính toàn cầu tương ứng, trong bối cảnh tăng cường ứng phó toàn cầu với mối nguy biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, và các nỗ lực xóa nghèo
(Tóm tắt các nội dung chính)
A. Về Nóng lên toàn cầu 1,5°C
1. Ước tính, các hoạt động của con người đã làm nóng lên toàn cầu khoảng 1,0°C so với thời kỳ tiền công nghiệp, với khoảng có khả năng là 0,8°C - 1,2°C. Nóng lên toàn cầu có khả năng đạt 1,5°C trong giai đoạn năm 2030 - 2052 nếu nhiệt độ tiếp tục tăng với tốc độ hiện Hiểu tại (độ tin cậy cao),.
2. Sự nóng lên do phát thải từ các hoạt động của con người từ giai đoạn tiền công nghiệp đến hiện tại sẽ tồn tại hàng thế kỷ, thậm chí tới hàng nghìn năm, và sẽ tiếp tục gây ra những thay đổi lâu dài trong hệ thống khí hậu, ví dụ mực nước biển dâng, với các tác động đi kèm (độ tin cậy cao), nhưng chỉ riêng những phát thải này không chắc có khả năng (unlikely) gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu 1,5°C (độ tin cậy trung bình).
3. Rủi ro liên quan đến khí hậu đối với các hệ thống tự nhiên và con người cao hơn đối với sự nóng lên toàn cầu 1,5°C ở thời điểm hiện tại, nhưng thấp hơn so với mức 2°C (độ tin cậy cao). Những rủi ro này phụ thuộc vào độ lớn và tốc độ nóng lên, vị trí địa lý, mức độ phát triển và tình trạng dễ bị tổn thương, và các lựa chọn và việc thực hiện các tùy chọn thích ứng và giảm nhẹ (độ tin cậy cao).
B. Dự báo biến đổi khí hậu, tác động tiềm tàng và rủi ro đi kèm
1. Các mô hình khí hậu dự báo những khác biệt lớn về đặc điểm khí hậu khu vực giữa hiện tại và khi nóng lên toàn cầu 1,5°C, và giữa nóng lên toàn cầu 1,5°C và 2°C. Những khác biệt này bao gồm tăng: nhiệt độ trung bình ở hầu hết các vùng đất và đại dương (độ tin cậy cao), hình thái cực nóng ở hầu hết các khu vực sinh sống (độ tin cậy cao), lượng mưa lớn ở một số vùng (độ tin cậy trung bình) và khả năng hạn hán và thiếu lượng mưa ở một số vùng (độ tin cậy trung bình).
2. Đến năm 2100, mực nước biển dâng trung bình toàn cầu được dự đoán là thấp hơn khoảng 0,1 mét khi nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C so với mức 2°C (độ tin cậy trung bình). Mực nước biển sẽ tiếp tục tăng sau năm 2100 (độ tin cậy cao), và mức độ tăng và tốc độ tăng này phụ thuộc vào các lộ trình phát thải trong tương lai. Tốc độ dâng mực nước biển chậm hơn sẽ tạo nhiều cơ hội thích ứng hơn trong các hệ thống sinh thái và con người ở các đảo nhỏ, vùng trũng ven biển thấp và đồng bằng châu thổ (độ tin cậy trung bình).
3. Trên đất liền, tác động đến đa dạng sinh học và hệ sinh thái, gồm cả sự mất đi và tuyệt chủng các loài, dự kiến sẽ thấp hơn khi nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C so với mức 2°C. Hạn chế nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C so với 2°C được dự báo sẽ giảm tác động lên các hệ sinh thái trên cạn, nước ngọt và ven biển, và giữ lại được nhiều công năng hơn của các hệ sinh thái này đối với con người (độ tin cậy cao).
4. Hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C so với 2ºC được dự báo là làm giảm sự gia tăng nhiệt độ đại dương cũng như làm tăng độ axit của đại dương và làm giảm nồng độ oxy trong đại dương (độ tin cậy cao). Do đó, giới hạn nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C được dự báo là làm giảm rủi ro đối với đa dạng sinh học biển, thủy sản và hệ sinh thái, và các chức năng và dịch vụ của chúng đối với con người, như được minh họa bằng những thay đổi gần đây đối với băng biển Bắc cực, hệ sinh thái rặng san hô nước ấm (độ tin cậy cao).
5. Các rủi ro liên quan đến khí hậu đối với sức khỏe, sinh kế, an ninh lương thực, cấp nước, an ninh con người, và tăng trưởng kinh tế được dự báo sẽ tăng lên khi nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C và tăng cao hơn nữa khi mức này là 2°C.
6. Hầu hết các nhu cầu thích ứng sẽ thấp hơn khi nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C so với mức 2°C (độ tin cậy cao). Có một loạt các tùy chọn thích ứng có thể làm giảm rủi ro biến đổi khí hậu (độ tin cậy cao). Có những giới hạn thích ứng và khả năng thích ứng đối với một số hệ thống con người và tự nhiên khi nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C, với các thiệt hại đi kèm (độ tin cậy trung bình). Số lượng và tính khả dụng của các tùy chọn thích ứng thay đổi theo ngành (độ tin cậy trung bình).
C. Lộ trình phát thải và chuyển tiếp hệ thống phù hợp với sự nóng lên toàn cầu 1,5°C
1. Trong các lộ trình mô hình không vượt hoặc vượt ít mức 1,5°C, lượng phát thải CO2 ròng do con người tạo ra trên toàn cầu giảm khoảng 45% từ năm 2010 đến năm 2030 (khoảng 40-60% khoảng tứ phân vị), đạt mức ròng bằng 0 vào khoảng năm 2050 (khoảng 2045–2055 khoảng tứ phân vị). Để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở dưới 2°C dự kiến, lượng phát thải CO2 phải giảm khoảng 20% tới năm 2030 ở hầu hết các lộ trình (10-30% khoảng tư phân vị) và đạt mức ròng bằng 0 vào khoảng năm 2075 (khoảng tứ phân vị 2065-2080). Phát thải phi CO2 theo các lộ trình nhằm hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C cũng cần giảm sâu tương tự như những lộ trình hạn chế sự nóng lên ở mức 2°C (độ tin cậy cao).
2. Những lộ trình hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C mà không vượt hoặc vượt ít so với giới hạn sẽ đòi hỏi sự chuyển tiếp nhanh chóng và sâu rộng về năng lượng, đất đai, đô thị và cơ sở hạ tầng (bao gồm cả giao thông và công trình) và hệ thống công nghiệp (độ tin cậy cao). Những hệ thống chuyển tiếp này chưa từng có về mặt quy mô, nhưng không nhất thiết về mặt tốc độ và ngụ ý giảm phát thải sâu trong tất cả các lĩnh vực, một danh mục rộng lớn các tùy chọn giảm thiểu và tăng đáng kể các khoản đầu tư vào các tùy chọn đó (độ tin cậy trung bình).
3. Tất cả lộ trình giới hạn sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,50C mà bị hạn chế không vượt quá giới hạn dự tính có mức sử dụng loại carbon dioxit (CDR) theo thứ tự 100-1000 GtCO2 trong thế kỷ 21. CDR sẽ được sử dụng dể bù đắp cho lượng phát thải dư và, trong hầu hết các trường hợp, đạt được lượng phát thải âm ròng để trở lại mức nhiệt độ nóng lên toàn cầu là 1,50C sau khi đạt đỉnh (độ tin cậy cao). Việc triển khai CDR của vài trăm GtCO2 phụ thuộc vào nhiều ràng buộc về sự khả thi và tính bền vững (độ tin cậy cao). Giảm phát thải ngắn hạn và các biện pháp hạ thấp năng lượng và nhu cầu sử dụng đất một cách đáng kể có thể hạn chế việc triển khai CDR tới vài trăm GtCO2 mà không phụ thuộc vào năng lượng sinh học với việc thu và lưu giữ carbon (BECCS) (độ tin cậy cao).
D. Tăng cường ứng phó toàn cầu trong bối cảnh phát triển bền vững và nỗ lực xóa đói giảm nghèo
1. Các ước tính về kết quả phát thải toàn cầu của các tham vọng giảm thiểu hiện hành trên toàn quốc như được đệ trình theo Thỏa thuận Paris sẽ dẫn tới phát thải khí nhà kính toàn cầu18 vào năm 2030 là 52–58 GtCO2eq yr-(độ tin cậy trung bình). Các lộ trình phản ánh những tham vọng này sẽ không hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,50C, ngay cả khi được bổ sung bởi sự gia tăng rất khó khăn về quy mô và tham vọng giảm phát thải sau năm 2030 (độ tin cậy cao). Để tránh việc vượt quá giới hạn và phụ thuộc vào việc triển khai quy mô lớn trong tương lai trong việc loại bỏ carbon dioxit (CDR) chỉ có thể đạt được nếu phát thải CO2 trên toàn cầu bắt đầu giảm tốt trước năm 2030 (độ tin cậy cao).
2. Các tác động có thể tránh của Biến đổi khí hậu đối với sự phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và giảm bất bình đẳng sẽ lớn hơn nếu sự nóng lên toàn cầu được giới hạn ở mức 1,50C thay vì 20C, nếu giảm thiểu và phối hợp thích ứng được tối đa hóa còn những đánh đổi được giảm thiểu hóa. (độ tin cậy cao).
3. Các tùy chọn thích ứng cụ thể với bối cảnh quốc gia, nếu chọn lựa cẩn trọng kết hợp với điều kiện thuận lợi, sẽ mang lại lợi ích cho phát triển bền vững và giảm nghèo khi trái đất nóng lên 1,5°C, mặc dù có thể phải đánh đổi (độ tin cậy cao).
4. Các phương án giảm nhẹ phù hợp với mức 1,5 °C liên quan tới các hiệp lực và sự cân bằng giữa các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs). Dù tổng hiệp lực lớn hơn những đánh đổi cần thiết, hiệu ứng ròng phụ thuộc vào tốc độ và cường độ thay đổi, thành phần của danh mục giảm thiểu và quản lý quá trình chuyển đổi (độ tin cậy cao).
5. Hạn chế rủi ro từ sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C trong bối cảnh phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo nhằm chuyển đổi hệ thống có thể được kích hoạt bằng cách tăng đầu tư vào các biện pháp thích ứng và giảm thiểu, công cụ chính sách, thúc đẩy đổi mới công nghệ và thay đổi hành vi (độ tin cậy cao).
6. Hỗ trợ phát triển bền vững, và thường tạo điều kiện cho các chuyển đổi xã hội và hệ thống cơ bản giúp hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C. Những thay đổi này tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo đuổi lộ trình phát triển bền vững để đạt được mức giảm thiểu và thích ứng cùng với xóa đói giảm nghèo và nỗ lực giảm bất bình đẳng đầy tham vọng (độ tin cậy cao).
7. Việc tăng cường năng lực cho hành động khí hậu của chính quyền cấp quốc gia và địa phương, xã hội dân sự, khu vực tư nhân, người bản địa và cộng đồng địa phương có thể hỗ trợ thực hiện các hành động đầy tham vọng về hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C (độ tin cậy cao). Hợp tác quốc tế có thể tạo một môi trường thuận lợi để đạt được điều này ở tất cả các nước và cho tất cả mọi người, trong bối cảnh phát triển bền vững. Hợp tác quốc tế là một yếu tố tạo điều kiện then chốt cho các nước đang phát triển và các khu vực dễ bị tổn thương (độ tin cậy cao).
Bản dịch trích Bản Tóm tắt dành cho các nhà hoạch định chính sách này đã được phê duyệt chính thức tại phiên họp thứ nhất của các Nhóm công tác I, II và III của IPCC và được chấp nhận trong phiên họp thứ 48 của IPCC, ở Incheon, Hàn Quốc, ngày 6/10/2018.
Bản tóm tắt cho các nhà hoạch định chính sách của Báo cáo đặc biệt về sự nóng lên toàn cầu 1.5ºC (SR15) có tại http://www.ipcc.ch/report/sr15/ hoặc www.ipcc.ch.
|