Việt Nam phát triển hệ thống vệ tinh nhỏ quan sát Trái đất
Tại Việt Nam, Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020 được Chính phủ phê duyệt từ năm 2006, đã định hướng cho quá trình phát triển công nghệ vũ trụ ở nước ta trong thời gian qua.
Đến năm 2020, đã có các vệ tinh của Việt Nam được phóng lên và hoạt động trong không gian, trong đó có 2 vệ tinh viễn thông (VINASAT-1, VINASAT-2), một vệ tinh nhỏ quan sát trái đất (VNREDSat-1) và các vệ tinh nghiên cứu "Made in Vietnam" PicoDragon, NanoDragon và MicroDragon.
Ngày 4/2/2021, Chiến lược phát triển và ứng dụng KH&CN vũ trụ đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mở đường cho sự phát triển về KH&CN vũ trụ trong giai đoạn mới.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: "Ứng dụng rộng rãi thành tựu của KH&CN vũ trụ; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm một số lĩnh vực có liên quan đến quốc phòng, an ninh, quản lý tài nguyên và môi trường, giám sát và hỗ trợ giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, cung cấp đa dạng dịch vụ cho người dân; nâng cao tiềm lực KH&CN của đất nước, góp phần bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thúc đẩy phát triển mọi mặt kinh tế-xã hội và bảo đảm các lợi ích quốc gia khác".
Chiến lược vũ trụ tới năm 2030 cũng đề xuất đến một số mục tiêu cụ thể quan trọng như: Làm chủ được công nghệ thiết kế, chế tạo, tích hợp các cảm biến quang học, radar cho vệ tinh quan sát Trái đất; lắp ráp, tích hợp, kiểm tra ở trong nước vệ tinh nhỏ có độ phân giải cao, siêu cao; làm chủ được công nghệ thiết kế, chế tạo thiết bị đầu cuối, trạm mặt đất điều khiển và thu nhận dữ liệu vệ tinh, các bộ phát đáp cho vệ tinh viễn thông; bảo đảm dung lượng truyền dẫn qua vệ tinh một cách hiệu quả, đặc biệt đáp ứng nhu cầu cho vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia.
Bên cạnh đó, chủ động, kịp thời giám sát, hỗ trợ ra quyết định ứng phó với các hoạt động, biến đổi của thiên nhiên, các biến động xã hội trên diện rộng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam; bảo đảm tính thời sự của dữ liệu bản đồ, hệ thống thông tin địa lý, dữ liệu tài nguyên, môi trường phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước, cung cấp nền tảng số cho phát triển đa dạng dịch vụ.

Ảnh minh họa
Từng bước làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh
PGS.TS. Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm KH&CN) cho biết, trong nhu cầu quan sát trái đất, chúng ta tạm có thể phân ra hai "lĩnh vực": Quan sát trái đất phục vụ phát triển kinh tế-xã hội (giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai, triển khai ứng dụng trong các hoạt động của đời sống xã hội, hỗ trợ trong giám sát tài nguyên thiên nhiên, quy hoạch đô thị, quản lý phát triển nông, lâm, ngư nghiệp,…) và quan sát Trái đất phục vụ an ninh, quốc phòng.
Trong điều kiện bình thường, một quốc gia hoàn toàn có thể mua dữ liệu, mua vệ tinh từ các nước phát triển khác và sử dụng một cách lưỡng dụng. Các dữ liệu hay vệ tinh này có thể có những giới hạn về công nghệ như độ phân giải không được quá cao (như ảnh có độ phân giải siêu cao dưới 0,5 m hay dưới 1 m tùy quốc gia).
Tuy nhiên, trong những điều kiện đặc biệt, thời khắc đặc biệt như khi có những tình huống khẩn cấp hay xung đột vũ trang, có những vấn đề về ngoại giao giữa nước mua với nước bán, ảnh vệ tinh, nguồn cấp các dữ liệu này có thể bị gián đoạn, các vệ tinh hoạt động trên không gian hoàn toàn có thể bị can thiệp để hạn chế năng lực.
Do đó, việc từng bước làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh, chủ động chế tạo, phát triển những thiết bị chính trong vệ tinh giúp chúng ta có thể dần dần làm chủ "tai mắt" của chúng ta trên quỹ đạo, giữ được bí mật mục tiêu theo dõi, giám sát. Từ đó có thể đưa ra những quyết định phù hợp trong những thời khắc quyết định. Làm chủ giúp chúng ta có được những cái cần tại thời điểm chúng ta muốn.
Các vệ tinh cỡ lớn do các cơ quan hàng không vũ trụ lớn trên thế giới phát triển (như chùm sentinel của châu Âu; các vệ tinh Landsat của Mỹ, SPOT của Pháp, ALOS của Nhật,...) vẫn có rất nhiều ứng dụng và được giới khoa học tin dùng do nhiều ưu điểm mà các vệ tinh này mang lại như: Độ tin cậy cao, chất lượng ảnh vệ tinh rất tốt, kích thước ảnh lớn, cộng đồng sử dụng rộng rãi-dễ dàng trao đổi thông tin khoa học với nhau, có khả năng cung cấp nhiều loại ảnh miễn phí,…
Đặc biệt, các vệ tinh cỡ nhỏ, độ phân giải siêu cao, kích thước ảnh nhỏ, độ tin cậy vừa phải (so với vệ tinh cỡ lớn) với lợi thế là tần suất chụp ảnh lớn được sử dụng cho nhiều mục đích thương mại phục vụ phát triển kinh tế-xã hội hay đặc biệt trong an ninh quốc phòng.
Các vệ tinh cỡ nhỏ thường được xây dựng thành chùm vệ tinh để tăng tần suất quan sát và cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người dùng (như các chùm vệ tinh của Planetlab, ICEYE, Synspective, Capella...).
Ngày 4/2/2021, Chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) vũ trụ đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mở đường cho sự phát triển về KH&CN vũ trụ trong giai đoạn mới.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ giao cho Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam nhiệm vụ xây dựng và triển khai Đề án "Tăng cường năng lực quốc gia về quan sát trái đất dựa trên vệ tinh nhỏ" để từng bước thực hiện các mục tiêu đưa ra của chiến lược vũ trụ.
Thông qua Đề án, một bức tranh toàn cảnh về nhu cầu, năng lực của Việt Nam về lĩnh vực quan sát trái đất sẽ được tổng hợp và xây dựng.
Trên cơ sở đó, các kế hoạch, lộ trình thực hiện, phối hợp nhiều nguồn lực như: An ninh quốc phòng; quản lý giám sát từ các cơ quan Chính phủ; các viện nghiên cứu–trường đại học và các doanh nghiệp sẽ được hoạch định và đề xuất cơ chế phối hợp để bảo đảm sự đầu tư hiệu quả, tránh trùng lặp, tránh lãng phí, đặc biệt là trong việc phối hợp vận hành hay chia sẻ nguồn dữ liệu, nguồn tài nguyên ảnh viễn thám phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền quốc gia trên đất liền, trên biển và cả trên vũ trụ.
Khám phá vũ trụ không chỉ là biểu tượng của KH&CN, niềm tự hào của quốc gia, mà ngày nay các quốc gia còn thấy được giá trị kinh tế to lớn từ ngành công nghiệp vũ trụ. Việc phát triển hệ thống vệ tinh quan sát Trái đất sẽ đem lại những giá trị to lớn, giúp Việt Nam tăng cường năng lực quan sát Trái đất, phục vụ nhiều lĩnh vực. Đối với phục vụ an ninh quốc phòng, sẽ bảo đảm việc chủ động nguồn ảnh, chủ động và giữ bí mật trong việc thực hiện giám sát mục tiêu, nhất là trong những tình huống khẩn cấp.
Ngoài ra, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu. Hiện nay mỗi năm Việt Nam thiệt hại khoảng 1% GDP do thiên tai, tương đương khoảng 3,5 tỷ USD. Trong khi đó, công nghệ vệ tinh quan sát trái đất được coi là một trong những công nghệ có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong các ứng dụng của công nghệ vũ trụ góp phần hỗ trợ các mục tiêu phát triển bền vững của một quốc gia đã được Liên Hợp Quốc đưa ra.
Đề án cũng đưa những ứng dụng công nghệ quan sát trái đất vào các hoạt động của đời sống kinh tế-xã hội; hỗ trợ việc quản lý, giám sát độc lập của cơ quan Chính phủ, của Quốc hội; hỗ trợ xây dựng quy hoạch…
Đây cũng là cơ hội lớn để phát triển đội ngũ cán bộ chuyên môn và xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng chuyên ngành.